Marketing là gì là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google về chủ đề Marketing là gì. Trong bài viết này, atpsolution.vn sẽ viết bài Marketing là gì? 9 đặc điểm cơ bản về marketing trên thị trường
Marketing là gì?
Marketing là tiếp thị – Một cách thức thịnh hành giúp mối liên quan với quý khách hàng. Và Marketing gồm tất cả những việc cần thực hiện để cuốn hút quý khách hàng đến với Brand Name và duy trì mối liên kết với họ.
Marketer là gì?
Marketer là những người làm việc trong chuyên môn Marketing tiếp thị, chịu trách nhiệm nghiên cứu, phân tích thị trường và lên chiến lược nhằm cung cấp hàng hóa và dịch vụ có chất lượng đến quý khách hàng tiềm năng.
Nhân viên Marketing tiếp thị là gì?
Nhân viên Marketing là người thực hiện các kế hoạch thuộc phòng tiếp thị đề ra, chắc rằng phương án marketing diễn ra trơn tru, đều đặn. Những chiến thuật sáng tạo, mạnh dạn, nhằm quảng bá sản phẩm/dịch vụ và hình ảnh doanh nghiệp đến người mọi người.
Từ đó, nhân viên marketer có thể gắn kết quý khách hàng với tên thương hiệu doanh nghiệp trong mối quan hệ bền chặt lâu dài.
9 đặc điểm cơ bản về tiếp thị là gì?
Bên trên bạn đã được hướng đến về khái niệm tiếp thị là gì? theo định nghĩa của philip kotler. Vậy mở rộng ra theo những khía cạnh và góc độ khác thì Marketing tiếp thị được định nghĩa như thế nào? Tổng hợp về tiếp thị với 9 khái niệm dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về về đặc điểm của Marketing.
Nhu cầu căn bản (Needs)
Điểm xuất phát của tư duy chiến lược tiếp thị là những nhu cầu và mong ước của con người. Người ta cần đồ ăn, nước uống, không khí và nơi ở để sống còn. kế cạnh đó, con người còn có nguyện vọng mạnh mẽ cho sự sáng tạo, giáo dục và các dịch vụ khác.
Nhu cầu cấp thiết của con người là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà họ cảm nhận được. Nhu cầu cấp thiết của con người rất đa dạng và phức tạp. Nó bao gồm cả những nhu cầu sinh lý cơ bản về ăn, mặc, sưởi ấm và an toàn tính mạng lẫn những nhu cầu cộng đồng như sự gần cận, thân mật, tin tưởng và tình cảm cũng giống như các nhu cầu cá nhân về tri thức và tự biểu hiện mình. Nhu cầu cấp thiết là những phần cấu thành nguyên thủy của bản tính con người, không phải do cộng đồng hay người làm tiếp thị tạo ra.
Nếu các nhu cầu cấp thiết không thể thỏa mãn thì con người sẽ cảm thấy đau buồn và bất hạnh. Và nếu các nhu cầu đó có ý nghĩa càng lớn đối với con người thì nó càng đau khổ hơn. Con người không thể thỏa mãn sẽ giải pháp lựa chọn một trong những hai hướng giải quyết: hoặc là bắt tay tìm kiếm một đối tượng có khả năng thỏa mãn được nhu cầu hoặc cố gắng kìm chế nó.
Marketing là gì? Marketing tiếp thị là làm gì? Marketing gồm những gì?- (Ảnh: Marketing management)
Mong muốn (Wants)
Mong ước của con người là một nhu cầu cấp thiết có dạng đặc thù, tương ứng với trình độ văn hóa và nhân cách của mỗi người. nguyện ước được biểu hiện ra thành những thứ cụ thể có chức năng thỏa mãn nhu cầu bằng phương thức mà nếp sống văn hóa của xã hội đó vốn quen thuộc.
Khi cộng đồng phát triển thì nhu cầu của các thành viên cũng tăng nhiều. Con người càng tiếp xúc nhiều hơn với những đối tượng gợi trí tò mò, sự quan tậm và ham muốn. Các nhà phân phối, về phía mình, luôn hướng làm việc của họ vào việc kích thích ham muốn mua hàng và cố gắng thiết đặt mối liên hệ thích ứng giữa những hàng hóa của họ với nhu cầu cấp thiết của con người.
Nhu cầu (Demands)
Nhu cầu của con người là những mong ước kèm thêm điều kiện có công dụng chi trả. Các mong muốn sẽ trở thành nhu cầu khi được bảo đảm bởi mức độ mua.
Con người không bị có hạn bởi nguyện ước mà bị có hạn bởi kỹ năng thỏa mãn ước muốn. Rất nhiều người cùng nguyện vọng 1 mặt hàng, nhưng chỉ số ít là thỏa mãn được nhờ kỹ năng thanh toán của họ. Do vậy, trong hoạt động marketing, các công ty phải đo lường được không riêng bao nhiêu người mua hàng hóa của chính mình, mà quan trọng hơn là bao nhiêu người có chức năng và thuận lòng mua chúng.
Trong quá trình thực hiện Marketing tiếp thị như một chức năng bán hàng, những người làm Marketing không tạo ra nhu cầu, nhu cầu tồn tại một cách khách quan.
Người làm Marketing cùng theo với các yếu tố khác trong xã hội tác động đến những nguyện vọng, nhu cầu với cách tạo ra những hàng hóa có lý, dễ tìm, thu hút và hợp túi tiền cho những quý khách hàng mục tiêu của họ. sản phẩm càng thỏa mãn nguyện vọng và nhu cầu của quý khách hàng tham vọng bao nhiêu thì người làm Marketing càng đạt kết quả tốt bấy nhiêu.
Sản phẩm (Product)
Những nhu cầu cấp thiết, nguyện ước và nhu cầu của con người gợi mở nên sự có mặt của hàng hóa.
Hàng hóa là bất cứ những gì rất có thể đưa ra thị trường, gây sự cần lưu ý, được tiếp nhận, được tiêu thụ hay tận dụng để thỏa mãn một nhu cầu hay nguyện ước của con người.
Thông thường thì từ “sản phẩm” gợi trong trí óc chúng ta một vật thể vật chất như là một cái ô tô, một cái ti vi hay một đồ uống,… Và vì thế, chúng ta thường tận dụng từ “sản phẩm” và “dịch vụ” để phân biệt các vật thể vật chất và cái không sờ mó hay chạm tới được. Nhưng thật ra, suy cho cùng, tầm có ảnh hưởng của các sản phẩm vật chất không nằm nhiều ở chỗ chúng ta có nó mà là ở chỗ chúng ta tận dụng nó để thỏa mãn mong muốn của chúng ta. có thể nói, người ta không mua 1 sản phẩm, họ mua những ích lợi mà sản phẩm đó đem lại. Chẳng hạn, người ta không mua một xe máy để ngắm nó mà để nó cung cấp một dịch vụ đi lại. Một hộp trang điểm được mua không phải để chiêm ngưỡng mà là để nó cung cấp một dịch vụ làm cho người ta đẹp hơn. Người phụ nữ không mua một lọ nước hoa, chị ta mua “một niềm hy vọng”,… Vì thế những sản phẩm vật chất thực sự là những công cụ để cung cấp dịch vụ tạo nên sự thỏa mãn hay lợi ích cho chúng ta. Nói một cách khác, chúng ta là những phương tiện chuyển tải ích lợi.
Định nghĩa tiếp thị là gì? Marketing trực tiếp là gì? (Ảnh: yourstory)
Khái niệm hàng hóa và dịch vụ còn bao gồm cả các hoạt động, vị trí, nơi chốn, các tổ chức và ý kiến. Vì vậy, đôi khi người ta tận dụng thuật ngữ khác để chỉ sản phẩm như vật làm thỏa mãn (satisfier), nguồn (resource) hay sự cống hiến (offer).
Sẽ là sai lầm nếu các đơn vị sản xuất chỉ chú trọng đến khía cạnh vật chất của sản phẩm mà ít quan tâm đến những tác dụng mà sản phẩm đó đem lại. Nếu như thế, họ chỉ nghĩ đến việc tiêu thụ hàng hóa chứ không phải là giải pháp để giải quyết một nhu cầu. Vì vậy, người bán phải ý thức được rằng nghề của họ là bán những tiện ích hay dịch vụ chứa đựng trong những hàng hóa có khả năng đáp ứng nhu cầu hay mong muốn của người tiêu dùng chứ không phải bán những đặc tính vật chất của hàng hóa.
Định nghĩa về hàng hóa và ước muốn dẫn chúng ta đến khái niệm khả năng thỏa mãn của hàng hóa. Chúng ta có thể diễn đạt 1 sản phẩm đặc trưng nào đó và một nguyện vọng nào đó thành các vòng tròn và diễn tả khả năng thỏa mãn nguyện vọng của hàng hóa bằng mức độ mà nó che phủ vòng tròn nguyện vọng.
Hàng hóa càng thỏa mãn nguyện ước càng nhiều càng đơn giản và dễ dàng được quý khách hàng chấp nhận hơn. Như vậy, rất có thể tổng kết rằng, đơn vị cung cấp cần định hướng những nhóm quý khách hàng mà họ muốn bán và nên cung cấp những hàng hóa làm thỏa mãn được càng nhiều càng tốt các nguyện ước của những nhóm này.
Tác dụng (Benefit)
Thông thường, mỗi người mua đều có một khoản doanh thu hạn chế,một trình độ hiểu biết nhất định về hàng hóa và kinh nghiệm mua hàng. Trong những điều kiện như vậy, người mua sẽ phải ra quyết định chọn mua những hàng hóa nào, của ai, với số lượng bao nhiêu nhằm tối đa hóa sự thỏa mãn hay tổng tiện ích của họ khi tiêu sử dụng các hàng hóa đó.
Tổng lợi ích của người tiêu dùng là tổng thể những lợi ích mà khách hàng mong đợi ở mỗi sản phẩm hay dịch vụ nhất định, hoàn toàn có thể bao gồm tác dụng cốt lõi của hàng hóa, ích lợi từ các dịch vụ kèm theo sản phẩm, chất lượng và khả năng nhân sự của nhà cung cấp, tin tưởng và hình ảnh của doanh nghiệp,…
Để đánh giá đúng sự sự chọn lựa mua sản phẩm của quý khách hàng, ngoài việc xem xét mức độ mà một sản phẩm rất có thể thỏa mãn những mong muốn của người mua, tức là những ích lợi mà hàng hóa đó hoàn toàn có thể đem lại cho họ, đơn vị sản xuất cần cân đo và so sánh các chi phí mà người mua phải trả để có được sản phẩm và sự thỏa mãn.
Marketing là gì? – tiếp thị có phải là tiếp thị? – Marketing mạng xã hội Facebook là gì? (Ảnh: entrepreneur)
Chi phí (Cost)
Tổng chi phí của người tiêu dùng là tổng thể các chi phí mà người tiêu dùng phải bỏ ra để có được hàng hóa. Nó bao gồm các chi phí giờ giấc, sức lực và tinh thần để tìm kiếm và chọn mua sản phẩm. Người mua đánh giá các chi phí này cùng với chi phí tiền bạc để có một ý niệm từ A đến Z về tổng chi phí của khách hàng.
Trong giai đoạn mua – bán sản phẩm, các giải pháp nêu trên tạo thuận lợi cho người mua mua được những gì họ mong muốn và người bán bán được hàng hóa của bản thân mình. Nhưng trong giai đoạn tiêu tận dụng, người bán cần phải biết được liệu người mua có hài lòng hay không so với những gì mà họ trông đợi ở sản phẩm.
Xem thêm: Tổng hợp các kiến thức marketing cơ bản nhất
Sự thỏa mãn của khách hàng (Customers’ satisfaction)
Sự thỏa mãn của khách hàng chính là trạng thái cảm nhận của một người qua việc tiêu dùng hàng hóa về mức độ tác dụng mà một mặt hàng thực tế đem lại so với những gì mà người đó kỳ vọng.
Như vậy để đánh giá mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng về một mặt hàng, người ta đem so sánh kết quả thu được từ sản phẩm với những kỳ vọng của người đó. hoàn toàn có thể xảy ra một trong các ba mức độ thỏa mãn sau: khách hàng không hài lòng nếu kết quả thực tế kém hơn so với những gì họ kỳ vọng; người tiêu dùng hài lòng nếu kết quả đem lại tương xứng với kỳ vọng và quý khách hàng rất hài lòng nếu kết quả thu được vượt quá sự mong đợi.
Những kỳ vọng của người tiêu dùng thường được ra đời từ trải nghiệm mua hàng trước đây của họ, những ý kiến của bạn bè và đồng nghiệp, những thông tin và hứa hẹn của người bán và đối thủ cạnh tranh. Bằng các nỗ lực tiếp thị, người bán hàng hoàn toàn có thể tác động, thậm chí làm thay đổi kỳ vọng của người mua. Ở đây cần tránh hai xu hướng: một là, người bán làm cho người mua kỳ vọng quá cao về sản phẩm của mình trong khi nó không xứng đáng, như vậy sẽ làm người mua thất vọng; hai là, người bán làm cho người mua có những kỳ vọng thấp hơn khả năng của hàng hóa thì sẽ làm hài lòng người mua nhưng không cuốn hút được nhiều người mua. Trong tình trạng này, phương án marketing thích hợp mà các doanh nghiệp thành công thường áp dụng là gia tăng kỳ vọng của khách hàng đồng thời với việc chắc rằng tính năng của hàng hóa tương xứng với những kỳ vọng đó.
Đối với những công ty coi quý khách hàng là trung tâm thì sự thỏa mãn của người tiêu dùng vừa là 1 trong mục tiêu ngành nghiệp Marketing vừa là một công cụ Marketing tiếp thị cục kỳ có ảnh hưởng. Hãng Honda có kiểu xe hơi Accord được thừa nhận là số một về mức độ thỏa mãn quý khách hàng trong nhiều năm, và việc quảng cáo về thành tích đó đã giúp hãng bán được nhiều xe Accord hơn. Hay Dell Computer’s cũng nhờ vào việc quảng cáo là doanh nghiệp được đánh giá bậc nhất về phương diện thỏa mãn quý khách hàng mà đạt được sự tăng trưởng cao trong nghề máy tính cá nhân.
Marketing tiếp thị là gì? – Dòng xe Accord của Honda (Ảnh: autocar.co.uk)
Khi một doanh nghiệp lấy khách hàng làm trung tâm và cố gắng tạo ra mức độ thỏa mãn cao cho khách hàng, nó gặp một trở ngại là khó có thể tăng tối đa mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng. Điều này được giải thích bằng 3 lý do sau:
Trước tiên, nếu tăng mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng bằng cách tiết kiệm chi phí với chính sách giảm giá sản phẩm hay tăng dần dịch vụ rất có thể sẽ làm giảm tiền lời của doanh nghiệp
Thứ hai, vì công ty còn có thể tăng khả năng sinh lợi bằng nhiều cách khác, như cải tiến sản xuất hay tăng đầu tư nghiên cứu và phát triển.
Thứ ba là vì công ty còn có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu của các nhóm tiện ích khác nữa, như những nhân viên của công ty, các đại lý, những người cung ứng và các cổ đông. Việc tăng lên chi phí để tăng lên mức độ thỏa mãn của quý khách hàng sẽ làm giảm bớt kinh phí để tăng lên tiện ích của các nhóm người này, sau cùng, công ty phải hành động theo triết lý là cố gắng chắc rằng mức độ thỏa mãn cao cho khách hàng trên cơ sở vẫn phải đảm bảo một mức độ thỏa mãn rất có thể chấp nhận được cho các nhóm tác dụng khác trong khuôn khổ có hạn các nguồn lực.
Marketing là gì? – Phân loại marketing? (Ảnh: real dealt weekly)
Bàn thảo và thanh toán (Exchange and transaction)
Phương án marketing diễn ra khi người ta đưa ra quyết định thỏa mãn các ước muốn của mình thông qua việc bàn bạc.
Bàn luận là hành vi thu được một vật mong muốn từ người nào đó bằng sự cống hiến trở lại vật gì đó. bàn luận là một trong các bốn cách để người ta nhận được hàng hóa mà họ nguyện vọng (tự sản xuất, chiếm đoạt, cầu xin và trao đổi). tiếp thị hình thành từ cách tiếp chận ở đầu cuối này nhằm có được các hàng hóa.
Bàn luận là khái niệm cốt lõi của tiếp thị. Tuy vậy, để một cuộc bàn bạc tự nguyện hoàn toàn có thể được tiến hành thì cần phải thỏa mãn 5 điều kiện sau:
|
5 điều kiện này tạo thành tiềm năng cho việc đàm luận. bàn bạc có thật sự diễn ra hay không là tùy thuộc vào việc đi đến một cuộc dàn xếp các điều kiện của những bên tham gia. Nếu họ đồng ý, chúng ta kết luận rằng hành vi bàn bạc làm cho mọi người dễ chịu (hoặc ít ra không có gì tệ hại cả), vì rằng mỗi bên tự do từ chối hay chấp nhận ý kiến đề nghị của bên kia. Theo nghĩa như vậy bàn luận là một tiến trình sáng tạo – giá trị. Chính sản xuất tạo ra chất lượng, bàn thảo cũng tạo ra chất lượng bằng cách mở rộng khả năng tiêu thụ.
đàm luận là một hoạt động đầy phức tạp của con người, là hành vi riêng có của con người, điều mà không khi nào có được trong thế giới loài vật. Theo Adma, Smith, “con người có một thiên hướng tự nhiên trong việc hoán vật, giao dịch thanh toán, trao thứ này để lấy thứ khác”.
Thanh toán
Nếu hai bên khẳng định bàn bạc đã đàm phán và đạt được một thương lượng, thì ta nói một vụ giao dịch thanh toán (giao dịch kinh doanh) đã xảy ra. thanh toán chính là đơn vị căn bản của bàn luận. Một thanh toán giao dịch bán hàng là một vụ buôn bán các chất lượng giữa hai bên.
Một giao dịch thanh toán buôn bán liên quan đến ít nhất hai vật có giá trị, những điềiu kiện được giao kèo, một thời điểm hợp lý, một nơi chốn phù hợp. Thường có một hệ thống pháp lý phát sinh để hỗ trợ và ràng buộc các bên giao dịch thanh toán phải làm đúng theo khẳng định.
Sự thanh toán khác với sự chuyển giao (transfer). Trong một vụ chuyển giao, A đưa X cho B nhưng không nhận lại điều gì rõ rệt. Khi A cho B một món quà, một sự trợ giúp hay một sự phân phối từ thiện thì ta gọi đó là sự chuyển giao chứ không phải là thanh toán bán hàng.
Đối tượng nghiên cứu của tiếp thị chỉ hạn hẹp chủ yếu trong khái niệm bàn bạc chứ không phải chuyển giao. mặc dù vậy, hành vi chuyển giao cũng rất có thể hiểu qua quan điểm bàn bạc. Người chuyển giao đưa ra một sản phẩm với hy vọng có được một số điều lợi nào đó, như thiện cảm, giảm bớt cảm xúc tội lỗi hoặc nhìn ra một hành vi tốt đẹp từ người nhận chuyển giao.
Theo nghĩa rộng, người làm Marketing tìm cách làm phát sinh sự cung ứng trước một số cống hiến và sự cung ứng ấy không chỉ là mua hay bán theo nghĩa hẹp. Marketing bao gồm những làm việc được thực hiện nhằm gợi mở một đáp ứng cần thiết của phía đối tượng trước một số vật thể. Trong chương trình này chúng ta hạn chế khái niệm tiếp thị là gì cho các hoạt động giao dịch thanh toán bán hàng mà không đề cập đến thảo luận với nghĩa rộng hơn, tựa như những làm việc chuyển giao là đối tượng của Marketing phi bán hàng.
Khái niệm Marketing tiếp thị là gì? – (Ảnh: hostpapa)
Thị trường (Market)
Ý kiến về đàm luận tất yếu dẫn đến ý kiến về thị trường. Thị trường là tập hợp những người mua hiện thực hay tiềm năng đối với một mặt hàng.
Quy mô của thị trường phụ thuộc vào số các cá nhân có nhu cầu và có những hàng hóa được người khác quan tâm đến và sẵn lòng đem đổi những hàng hóa này để lấy cái mà họ nguyện vọng.
Một thị trường rất có thể thành lập và hoạt động xung quanh một mặt hàng, một dịch vụ hoặc bất kỳ cái gì khác có giá trị. Chẳng hạn, thị trường lao động bao gồm những người muốn cống hiến sự hoạt động của họ để đổi lấy lượng tiền hay sản phẩm. Thị trường tiền tệ xuất hiện để thỏa mãn những nhu cầu của con người sao cho họ rất có thể vay mượn, để dành và bảo quản được tiền bạc…
Không nên ý kiến hạn chế thị trường như là 1 mặt bằng diễn ra các kết nối bàn bạc. Trong các xã hội phát triển, thị trường không nhất thiết phải là mặt bằng cụ thể. Với những phương tiện truyền thông và chuyên chở hiện đại, một nhà bán hàng có thể quảng cáo một mặt hàng trên chương trình ti vi vào giờ tối, nhận đặt hàng của hàng trăm quý khách hàng qua điện thoại và gửi sản phẩm qua đường bưu điện cho quý khách hàng trong những ngày sau đó mà không cần phải có bất cứ cuộc tiếp xúc trực tiếp nào với người mua.
Vai trò của Marketing tiếp thị là gì?
Marketing ngày càng có ảnh hưởng trong nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh khốc liệt. Marketing tiếp thị đóng một vai trò có ảnh hưởng trong việc thiết đặt mối liên quan giữa khách hàng và các tổ chức cung cấp cho thị trường. Nó giúp làm hài lòng các người tiêu dùng bằng hàng hóa của công ty qua quá trình nghiên cứu tiếp thị, xây dựng, thử nghiệm hàng hóa dựa trên nhu cầu và nguyện vọng của người tiêu dùng. Đồng thời, nhờ chức năng truyền thông được thực hiện qua việc quảng cáo, PR,… tiếp thị còn đóng vai trò cung cấp các thông tin đến các quý khách hàng, là cơ sở sự chọn lựa của khách hàng. Quá trình quan tâm nhu cầu người tiêu dùng và âu yếm khách hàng của bộ phận tiếp thị còn đóng vai trò thỏa mãn yêu cầu của khách hàng.
Tiếp thị còn đóng vai trò xây dựng hình ảnh thương hiệu, công ty, mang lại tin cậy và sức mạnh cạnh tranh. Khi Marketing cung ứng được nhu cầu người tiêu dùng và bám sát thị trường, Marketing mang lại tiền lời cho công ty, gia tăng thu nhập, bởi vậy nó đóng vai trò then chốt quyết định đạt kết quả tốt của một doanh nghiệp.
Marking ảnh hưởng NHƯ THẾ THẾ NÀO ĐẾN XÂY DỰNG tên thương hiệu
NHU CẦU, nguyện vọng VÀ YÊU CẦU
Cần phân biệt rõ các định nghĩa nhu cầu, nguyện ước và yêu cầu.
- Nhu cầu của con người là một trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thoả mãn cơ bản nào đó. Người ta cần có món ăn, quần áo, nơi ở, sự an toàn, của cải, sự quý trọng và một vài thứ khác nữa để tồn tại. Những nhu cầu này không phải do xã hội hay những người làm Marketing tiếp thị tạo ra. Chúng tồn tại như một bộ phận cấu thành cơ thể con người và nhân thân con người.
- Mong ước là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những nhu cầu sâu xa hơn đó. Ví dụ: một người có nhu cầu thức uống và mong muốn có món trà sữa hoặc “con cọp”, có nhu cầu về quần áo và nguyện ước có bộ đồ Cholon hoặc Zara, có nhu cầu về sự hấp dẫn và nguyện vọng có vòng ngực 90 hoặc vòng eo 56…Mặc dù nhu cầu của con người thì ít, nhưng mong muốn thì nhiều.
- Yêu cầu là nguyện vọng có được những sản phẩm cụ thể được hậu thuẫn của khả năng và thái độ sẵn sàng mua chúng. mong ước trở thành yêu cầu khi có mức độ mua hỗ trợ.
Nhiều người mong muốn có một chiếc oto để đi đường khỏi nắng mưa, hít bụi, nhưng chỉ có một số ít người có tác dụng và sẵn sàng mua nó. Vì thế doanh nghiệp không những phải định lượt view có bao nhiêu người mong muốn có hàng hóa của bản thân mình, mà điều cốt lõi hơn là phải định lượng xem có bao nhiêu người thực sự sẵn sàng và có khả năng mua nó.
Những người làm Marketing không tạo ra nhu cầu, nhu cầu đã tồn tại trước khi có những người làm tiếp thị.
Cùng theo với những yếu tố ảnh hưởng khác trong xã hội, những người làm tiếp thị có ảnh hưởng đến những nguyện vọng.
Họ ảnh hưởng đến yêu cầu với cách làm ra hàng hóa thích hợp, cuốn hút, vừa túi tiền và dễ kiếm cho những người tiêu dùng ý định.
Sản phẩm
Người ta thoả mãn những nhu cầu và nguyện vọng của mình bằng hàng hoá và dịch vụ. Thuật ngữ hàng hóa ở đây có thể hiểu là cả hàng hoá lẫn dịch vụ. Ý nghĩa đáng kể của hàng hóa vật chất bắt nguồn không phải từ việc sở hữu chúng, mà chính là từ việc có được những dịch vụ mà chúng đem lại.
Ta mua một chiếc xe không phải để ngắm nhìn nó mà vì nó cung ứng vận chuyển. Ta mua một cái bếp không phải để chiêm ngưỡng mà vì nó đảm bảo dịch vụ nấu nướng. Vì vậy các hàng hóa vật chất thực sự là những phương tiện chắc rằng phục vụ chúng ta.
Thực ra thì dịch vụ còn do những thành phần khác bảo đảm, như con người, địa điểm, các hoạt động, tổ chức và ý tưởng. Nếu ta cảm thấy buồn thì ta có thể đến một câu lạc bộ hài kịch để xem một diễn viên hài thể hiện, gia nhập câu lạc bộ độc thân (tổ chức) hay chấp nhân triết lý sống khác nhau (ý tưởng).
Vì thế ta sẽ sử dụng thuật ngữ hàng hóa để ám chỉ hàng hóa vật chất, hàng hóa dịch vụ và những phương tiện khác có tác dụng thoả mãn một mong muốn hay một nhu cầu.
THỊ TRƯỜNG
Thị trường bao gồm tất cả các người tiêu dùng hiện tại và tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay nguyện ước cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia đàm luận để thỏa mãn nhu cầu hay nguyện vọng đó. Như vậy quy mô của thị trường phụ thuộc vào một số người có nhu cầu và có những tài nguyên được người khác âu yếm, và sẵn sàng đem lại những tài nguyên đó để đổi lấy cái mà họ mong ước.
Các nhà kinh tế tận dụng thuật ngữ thị trường để chỉ một tập thể những người mua và người bán thanh toán giao dịch với nhau vể một loại sản phẩm hay một lớp hàng hóa cụ thể, như thị trường nhà đất, thị trường ngũ cốc…Tuy nhiên, những người làm Marketing lại coi người bán họp thành công việc sản xuất, coi người mua họp thành thị trường.